Kết hợp giữa pháp luật và hương ước trong quản lý bảo vệ rừng

Kết hợp giữa pháp luật với luật tục, hương ước, quy ước cam kết tham gia quản lý bảo vệ rừng đối với đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc chính là công cụ, phương tiện để bảo vệ và phát triển rừng tận gốc; góp phần thúc đẩy xã hội hoá công tác quản lý, bảo vệ rừng và cụ thể hoá quy chế thực hiện dân chủ ở xã.

Ths. Tráng A Dương
Phó Vụ trưởng Vụ Địa phương I – Ủy ban Dân tộc

150928_HuongUoc
Đám cưới của người Dao đỏ Tuyên Quang (Ảnh Văn Thân)

Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, gồm 54 dân tộc anh em tồn tại thống nhất, gắn bó với nhau. Trong đó, đông nhất là dân tộc Kinh là chiếm 85,7% dân số, các dân tộc khác chiếm 14,3% dân số (Theo kết quả tổng điều tra dân số năm 2009). Đa số các dân tộc thiểu số sống ở miền núi và vùng sâu, vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.

Tây Bắc là địa bàn rộng lớn, là nơi sinh sống lâu đời của nhiều dân tộc thiểu số. Các tỉnh Tây Bắc cũng là địa bàn có tiềm lực kinh tế to lớn, có nguồn tài nguyên phong phú. Với địa thế cao, dốc, thảm thực vật lớn, các tỉnh Tây Bắc đóng vai trò quan trọng đối với môi trường sinh thái của cả nước. Ngoài ra, các tỉnh này còn có đường biên giới dài tiếp giáp với Trung Quốc và Lào nên có vị trí đặc biệt quan trọng về quốc phòng và an ninh.

Các tỉnh Tây Bắc có trên 30 dân tộc anh em chung sống. Trong đó các dân tộc Tày, Thái, Mường, Mông, Nùng là những dân tộc có dân số đông hơn cả. Từ xa xưa, các dân tộc thiểu số đều có những hương ước, quy ước để điều chỉnh các mối quan hệ tại cộng đồng dân cư. Những mối quan hệ xã hội mà pháp luật không điều chỉnh hoặc chỉ điều chỉnh ở mức độ quy định các nguyên tắc chung như: việc tổ chức ma chay, cưới xin, bảo vệ trật tự trị an, phát triển sản xuất, khuyến khích học hành, giữ gìn và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống, giải quyết các tranh chấp hoặc những vi phạm nhỏ trong nhân dân, cam kết tham gia quản lý bảo vệ rừng,…. Đa số các hương ước, quy ước của các dân tộc thiểu số là những thuần phong, mỹ tục thể hiện nét văn hoá đẹp, có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội. Tuy nhiên, còn tồn tại những hương ước, quy ước mang tính hình thức; chưa phát huy hết vài trò của chúng trong công đồng các dân tộc thiểu số.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước chủ trương vừa kế thừa, phát huy luật tục, phong tục vừa kết hợp với pháp luật trong quản lý cộng đồng dân tộc thiểu số.

Hệ thống pháp luật là công cụ hỗ trợ cho quản lý nhà nước điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản. Pháp luật mang tính phổ biến, có tầm vĩ mô từ trên xuống.Còn hương ước, quy ước, luật tục mang tính địa phương, phản ánh sắc thái riêng mang tính tự quản, xuất phát từ nội lực, tinh thần làm chủ ngay ở cơ sở.

Một số hương ước, quy ước tham gia quản lý bảo vệ rừng có giá trị bổ trợ cho pháp luật của Nhà nước:

Tục ăn ước của cộng đồng dân tộc Mông: Trong lễ này, người ta xây dựng thêm hay nhắc lại các quy ước bảo vệ rừng, đồng thời quy định lại các hình thức xử phạt nếu có người vi phạm. Nghiêm cấm đốt nương làm rẫy. Chặt cây trong rừng cấm bị phạt một con lợn hoặc bị phạt từ 50.000 đến 100.000 đồng.

Quy định của cộng đồng dân tộc Thái: Ai muốn phát rừng làm rẫy phải được Tạo bản cho phép; nếu tự ý làm, sẽ bị phạt từ 1 đến 3 nén bạc kèm theo rượu, thịt. Hàng năm cứ đến cuối tháng 5 (âm lịch) mới được vào rừng lấy măng, nhưng chỉ được hái lứa đầu và lứa thứ tư. Ai làm sai bị phạt 1 nén bạc kèm theo rượu, thịt. Cây gỗ, cây quế trong rừng dù lớn hay nhỏ, nhưng trên thân cây có dấu chữ thập (+) hoặc dấu nhân (x) là cây đã có chủ, không ai được chặt cây gỗ đó nữa.

Trong cộng đồng dân tộc Tày quy định: cấm không để cháy rừng, ai lấy trộm cây rừng của người khác thì bị phạt gấp 3 lần số thiệt hại.

Trong cộng đồng dân tộc Nùng quy định: các gia đình không được chặt rừng, đốt rẫy làm nương ở những nơi đầu nguồn nước. Không được bẻ măng hoặc cho trâu ăn măng rừng của người khác. Ai vi phạm sẽ bị phạt 5 cân thóc một cây măng.

Lễ cúng rừng đầu năm của người Dao tuyển xã Trì Quang (huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cao) quy định với những nội dung: Không chặt phá rừng, khai thác rừng trái phép, vận động bà con trong thôn cùng tham gia thực hiện nghiêm chỉnh “Hương ước, quy ước bảo vệ và phát triển rừng” do thôn bản xây dựng lên, tích cực tham gia trồng rừng,… không một ai được xâm phạm đến khu rừng cấm, nếu ai vi phạm sẽ bị phạt theo quy ước đã đề ra.

Đặc trưng về sự kết hợp giữa pháp luật với luật tục, hương ước, quy ước cam kết tham gia quản lý bảo vệ rừng
Trong lĩnh vực bảo vệ rừng, pháp luật của nhà nước và luật tục, hương ước, quy ước bảo vệ rừng đều là hệ thống các quy tắc xử sự của con người đối với rừng và trong công tác bảo vệ rừng, giữa con người với con người trong cộng đồng, thể hiện ý chí của chủ thể quản lý, có tính cưỡng chế và bắt buộc chung, góp phần bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước bằng pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ rừng. Về bản chất pháp lý, chúng đều mang tính quy phạm, do vậy có nhiều ý kiến đề nghị sử dụng luật tục, hương ước, quy ước như là một trong những nguồn của pháp luật Việt Nam.

Luật tục, hương ước, quy ước là di sản văn hoá quản lý cộng đồng vô cùng quý báu, hiện đang có hiệu lực thực tế trong đời sống các dân tộc với những nội dung mới được bổ sung mang tính thời đại, được kế thừa và phát huy trên cơ sở truyền thống, đã thành tâm thức của cộng đồng. Nếu Nhà nước sử dụng một cách khoa học, thì luật tục, hương ước, quy ước bảo vệ rừng sẽ bổ sung cho công cụ pháp luật bảo đảm quản lý có hiệu quả, tiết kiệm, sát thực, có sức thu hút cao sự tham gia của cộng đồng trong công tác bảo vệ rừng.

Cùng với pháp luật của nhà nước, các giá trị tiến bộ của luật tục, hương ước, quy ước bảo vệ rừng đang phát huy tác dụng trong đời sống cộng đồng. Khuyến khích, tạo điều kiện để cộng đồng vận dụng luật tục, hương ước, quy ước truyền thống trong bảo vệ rừng sẽ mang lại hiệu quả to lớn.

Thành tựu về việc bảo vệ và phát triển rừng

Giảm dần tình trạng suy thoái rừng, đi vào giai đoạn phục hồi vốn rừng, từng vùng đã có tăng trưởng; Nghề rừng đối với các tỉnh Tây Bắc đã dần thích ứng phương thức sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường; đời sống của người trồng và bảo vệ rừng từng bước được cải thiện, công tác xây dựng các hương ước, quy ước cam kết tham gia quản lý bảo vệ rừng đối với đồng bào các dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc được thực hiện tốt.

150928_HuongUoc1
Tết của người Hà Nhì (Ảnh Văn Thân)

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu và kết quả đã đạt được trong công tác xây dựng các hương ước, quy ước cam kết tham gia quản lý bảo vệ rừng đối với đồng bào các dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc cũng còn nhiều hạn chế: Thông qua các hương ước, quy ước cam kết tham gia quản lý bảo vệ rừng đối với đồng bào các dân tộc thiểu số chưa thật sự vững chắc, chất lượng và hiệu quả bảo vệ rừng chưa cao dẫn đến mức độ độ che phủ của rừng chưa đủ bảo đảm trong các tỉnh. Công tác bảo vệ rừng kết hợp giữa pháp luật với luật tục, hương ước, quy ước cam kết tham gia quản lý bảo vệ rừng đối với đồng bào các dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc còn nhiều yếu kém, vi phạm lâm luật còn khá phổ biến trong công đồng các dân tộc thiểu số, thậm chí có nơi diễn ra đốt nương làm rẫy, chặt phá rừng,…

Việc thực hiện chính sách dân tộc gắn với việc bảo vệ và phát triển rừng đã được Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đối với miền núi, vùng cao. Bằng các chính sách được cụ thể hoá thành các chương trình, dự án phù hợp, sát thực với từng vùng, từng đối tượng, nhiều nơi ở miền núi, vùng cao từ chỗ thường phá rừng làm rẫy đến chuyển sang tu bổ, bảo vệ rừng và trồng rừng có kết quả, xuất hiện nhiều mô hình vườn rừng, đồi rừng, trang trại lâm nghiệp,… từng bước hình thành vùng cây công nghiệp, cây ăn quả, dược liệu có sản phẩm hàng hoá…, đã góp phần tích cực ổn định sản xuất và cuộc sống cho hơn 2 triệu người thuộc diện du canh du cư trước đây. Điều đó chứng tỏ rằng việc thực hiện chính sách dân tộc gắn với việc việc bảo vệ, phát triển rừng các tỉnh Tây Bắc có điều kiện làm tốt hơn nữa việc bảo vệ rừng, phát triển rừng gắn với thực hiện chính sách dân tộc.

Tóm lại

Hương ước, quy ước bảo vệ và phát triển rừng do cộng đồng dân cư thôn bản tự bàn bạc, thảo luận và thống nhất ý kiến xây dựng và tổ chức thực hiện. Với sự hướng dẫn, giám sát của kiểm lâm địa bàn và được sự chuẩn y của Uỷ ban nhân dân huyện, vì vậy hương ước, quy ước phù hợp với phong tục, tập quán, nguyện vọng của người dân và cộng đồng, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời không trái với các quy định của Nhà nước.

Hương ước, quy ước bảo vệ và phát triển rừng nâng cao được ý thức, trách nhiệm của mỗi người dân trong cộng đồng; tạo dựng niềm tin của nhân dân đối với chủ chương của Đảng và pháp luật của Nhà nước; huy động được mọi nguồn lực sẵn có tại địa phương góp phần quan trọng cho việc bảo vệ rừng, phát triển kinh tế của mỗi gia đình, cộng đồng và các khu vực xung quanh.

Hương ước, quy ước bảo vệ và phát triển rừng đã duy trì, bảo vệ và phát huy phong tục tập quán; kế thừa được truyền thống văn hoá tốt đẹp của mỗi dân tộc, dòng tộc trong cộng đồng và trong khu vực, tạo dựng mối liên hệ mật thiết và liên kết giữa các hộ gia đình, dòng tộc, thôn, bản thành sức mạnh đoàn kết chung của cả cộng đồng.

Kết hợp giữa pháp luật với luật tục, hương ước, qui ước cam kết tham gia quản lý bảo vệ rừng đối với đồng bào dân tộc thiểu số các tỉnh Tây Bắc đã hình thành được quy hoạch sử dụng đất cấp thôn, bản, làm cơ sở cho việc quy hoạch sử dụng đất cấp xã, huyện. Đồng thời, xây dựng được mạng lưới bảo vệ rừng, phòng cháy- chữa cháy rừng từ thôn, bản.

(MT&ĐS)

Viện Đào tạo Nhân lực và Hợp tác Quốc tế

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *